Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản chế định xóa án tích cho người bị kết án theo hướng mở rộng đối tượng được xóa án tích hoặc được coi là chưa có án tích, nhân đạo, khoan hồng đối với người bị kết án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, sớm ổn định để làm ăn, sinh sống.
Bộ luật Hình sự năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015, mặc dù đến nay thời điểm có hiệu lực thi hành của Bộ luật đang tạm lùi lại, nhưng với những chỉ đạo của Quốc hội tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016, thì những quy định có lợi cho người
Trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản liên quan đến xóa án tích, đặc biệt đương nhiên được xóa án tích là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự thể hiện tính nhân đạo và nguyên tắc công bằng dân chủ, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện cho những người được xóa án tích tái hòa nhập với cộng đồng, ổn
Căn cứ theo quy định tại Điều 70 về Đương nhiên được xóa án tích của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau: "1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi
Trong những số ấy có dự án Luật BHXH sửa đổi. Theo đó, dự loài kiến tại kỳ họp lắp thêm sáu (diễn ra trong thời điểm tháng 10-2023), chính phủ quốc hội cho chủ kiến về dự án công trình Luật BHXH (sửa đổi) để chính phủ nước nhà hoàn thiện dự luật. Sau đó, tại
thuê LUẬT SƯ HÌNH SỰ GIỎI, gọi 0922 822 466, LUAT SU HINH SU, LUẬT SƯ BÀO CHỮA cho bị can, bị cáo. Tư vấn về thời hạn để được xóa án tích và các trình tự thủ tục để thực hiên việc xóa án tích; luật sư bào chữa, Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng
ar0EdEN. - Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự 2015 đã điều chỉnh định nghĩa về người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và bỏ đi quy định về việc phải “được Tòa án cấp giấy chứng nhận” như trong BLHS trước đây. Với quy định mới này, BLHS năm 2015 đã giải quyết được những khó khăn đối với người chấp hành xong bản án; rút bớt các thủ tục, đồng thời chuyển trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích của người bị kết án sang cho các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp khoản 4 Điều 70- Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 quy định rõ 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích. Đó là 1 Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; 2 Người được miễn hình phạt; 3 Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; 4 Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; 5 Người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi đối tượng xác định mang án tích so với trước đây. Theo đó, đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ khi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và bị áp dụng hình phạt mới phải mang án tích và đối với họ được áp dụng hình thức xóa án tích đương nhiên. Đối với người đã thành niên thì họ phải mang án tích trong trường hợp bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc bị kết án do lỗi cố ý về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm Khoản 2 Điều 70 quy định giữ nguyên thời hạn 01 năm để được xóa án tích đối với trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; nhưng rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 02 năm đối với trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm và 05 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Đồng thời, quy định rõ hơn đối với trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xoá án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời hiệu thi hành bản án người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn a 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; b 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm Khoản 2 Điều 107.- Thời hạn xóa án tích được tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc khi hết thời hiệu thi hành bản án. Đây là quy định mới và có lợi người cho người bị kết án trong cách tính thời hạn xóa án tích trong Bộ luật Hình sự năm 2015 vì theo quy định trước đây thì thời hạn xóa án tích được tính khi người phạm tội chấp hành xong bản ra, trong thời hạn xóa án tích thì người bị kết án không được thực hiện hành vi phạm tội mới. Tội phạm mới này có thể là bất kỳ loại tội phạm nào cũng như có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý. Nếu như người bị kết án chưa được xóa án tích lại phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự năm 2015.- Xóa án tích theo quyết định của Tòa án Điều 71 được áp dụng đối với người bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện+ Tòa án quyết định xóa án tích căn cứ vào tính chất tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.+ Thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án được xác định là từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn a 01 năm nếu bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo; b 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c 05 năm nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm, d 07 năm nếu bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn trên thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ với trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì sau 02 năm mới được xin xóa án Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt Điều 72 người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật hình sự Tạp chí Kiểm sátĐây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
Một người bị kết án hình sự đã được xóa án tích thì họ sẽ không phải gánh chịu hậu quả của việc từng bị kết án mang lại. Án tích là hậu quả pháp lý về nhân thân của người bị kết án và áp dụng hình phạt được lưu lại trong lý lịch tư pháp. Khi một người bị tuyên án hình sự thì hậu quả mà người đó phải gánh chịu không chỉ là hình phạt trong Bản án mà người đó còn bị coi là có án tích trong lý lịch tư pháp. Người có án tích sẽ bị hạn chế về quyền lợi so với những người không có án tích. Tuy nhiên, án tích không phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn, sau khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật thì án tích sẽ được xóa. Khi đó người đã xóa án tích được coi như chưa bị kết nhất, ý nghĩa của việc xóa án tíchi Về mặt pháp lý Khoản 1 Điều 69 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự quy định “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án”. Như vậy, một người bị kết án hình sự đã được xóa án tích thì họ sẽ không phải gánh chịu hậu quả của việc từng bị kết án mang lại. Nghĩa là, sau khi xóa án tích, họ trở thành người bình thường về mặt tư pháp và họ không bị hạn chế về quyền lợi do đã từng bị kết án. Khi một người đã được xóa án tích thì Tòa án sẽ không căn cứ vào tiền án đã được xóa để xác định là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm.ii Về mặt xã hội Xóa án tích là một việc làm thể hiện tính nhân văn của nhà nước đối với những người đã bị kết án hình sự, tạo điều kiện cho họ làm lại cuộc đời, giúp họ hòa nhập với cộng đồng, thay đổi bản thân để cống hiến cho xã hai, các trường hợp được xóa án tíchi Đương nhiên được xóa án tích Bộ luật Hình sựNgười bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh được quy định trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi 2017 khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo, hình phạt bổ sung hoặc hết thời hiệu thi hành bản án mà không thực hiện hành vi phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích trong thời hạn sau01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm đủ các điều kiện nêu trên và có yêu cầu thì Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích đối với người đương nhiên được xóa án tích.ii Xóa án tích theo quyết định của Tòa án Điều 71 Bộ luật Hình sựNgười bị kết án về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh được quy định trong Bộ luật hình sự. Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người bị kết án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án và nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án mà không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích.iii Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt Điều 72 Bộ luật hình sựTòa án có thể quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn trong trường hợp đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án. Trong trường hợp này, người bị kết án phải thỏa mãn điều kiện có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị.iv Xóa án tích đối với pháp nhân thương mại Điều 89 Bộ luật Hình sựPháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội ba, trình tự, thủ tục xóa án tíchNhững người bị kết án, nếu đủ điều kiện xóa án tích thì nộp hồ sơ xin xác nhận xóa án tích tại Tòa án đã xét xử sơ thẩm, hồ sơ gồmĐơn xin xóa án tíchCác tài liệu như giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam; giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khoản bồi thường, án phí, tiền phạt, truy thu; giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an Quận, Huyện nơi người bị kết án thường trú sao hộ khẩu;Bản sao chứng minh nhân với xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, ngoài các lọai tài liệu như trên, phải có văn bản đề nghị của chính quyền, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án thường trú, công khi nhận hồ sơ, Tòa án kiểm tra nếu thấy hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thì sẽ cấp giấy chứng nhận hoặc ra Quyết định xóa án tích đối với người bị kết xin xóa án tích không phải nộp bất kỳ khoản phí nào cho Tòa sư Nguyễn Thị Phương Hoa - Phòng tranh tụng của Công ty Luật TNHH EverestXem thêmGiới thiệu về Công ty Luật TNHH EverestDịch vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự của Công ty Luật TNHH EverestHoạt động vì cộng đồng của Công ty Luật TNHH EverestKhuyến nghị của Công ty Luật TNHH EverestBài viết trong lĩnh vực hình sự nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật1900 6198, E-mail[email protected].
Xóa án tích là một chế định thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam, khuyến khích người phạm tội tuân thủ pháp luật sau khi chấp hành xong bản án, tạo điều kiện cho người phạm tội làm lại cuộc đời, nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng. Vậy hiện nay quy định về xóa án tích có gì mới cần chú ý? Mời quý khách hàng cùng theo dõi tư vấn của Luật sư tư vấn Hình sự dưới đây. 1. Quy định xóa án tích mới về những trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích Theo quy định xoá án tích tại Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 BLHS có hai điểm mới là - Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và không cần phải “được Tòa án cấp giấy chứng nhận” như trong BLHS trước đây. - Có quy định rõ 05 trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích Khoản 2 Điều 69 và Điều 107 BLHS đó là + Người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; + Người được miễn hình phạt; + Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; + Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; + Người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. 2. Quy định xóa án tích mới về trường hợp đương nhiên được xóa án tích Trên cơ sở tại khoản 2 Điều 70 BLHS thì quy định xoá án tích về đương nhiên được xóa án tích cần chú ý như sau + Giữ nguyên quy định thời hạn 01 năm để được xóa án tích đối với trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; + Rút ngắn thời hạn để được xóa án tích còn 02 năm đối với trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; 03 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm và 05 năm đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án; + Riêng trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. Xem thêm Quy định pháp luật về xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi 3. Quy định xóa án tích mới về trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định Đối với trường hợp xóa án tích do Tòa án quyết định. Quy định xoá án tích tại Điều 71 BLHS cũng đã rút ngắn thời hạn xóa án tích sớm hơn và có lợi hơn cho người phạm tội so với Bộ luật hình sự năm 1999 BLHS năm 1999 đó là - Thời hạn được xoá án tích là 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm BLHS năm 1999 quy định trường hợp này người bị kết án phạt tù đến 03 năm; - Thời hạn được xoá án tích là 05 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm thời hạn giảm 02 năm so với BLHS năm 1999; - Thời hạn được xoá án tích là 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. BLHS năm 1999 quy định thời hạn là 10 năm. 4. Quy định xóa án tích mới về thời điểm để tính thời hạn xóa án tích Dựa vào Điều 73 BLHS thì quy định xóa án tích về thời điểm để tính thời hạn xóa án tích có điểm khác so với BLHS năm 1999 như sau Thời hạn xóa án tích căn cứ và hình phạt chính đã tuyên, thời điểm tính xóa án tích kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản là một trong những quy định mới, khác biệt với luật cũ. BLHS năm 1999 quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích là từ khi chấp hành xong bản án hoặc hết thời hiệu thi hành bản án. Ví dụ A bị kết án 02 năm tù về tội trộm cắp tài sản, buộc bồi thường 10 triệu đồng và chịu án phí theo quy định. Trường hợp này, thời điểm tính xóa án tích kể từ khi A đã chấp hành xong hình phạt tù, không phụ thuộc vào việc chấp hành các quyết định khác trong bản án. Trên đây là sự tư vấn của công ty về những quy định xóa án tích mới nhất. Nếu quý khách hàng muốn tìm hiểu rõ hơn hoặc thắc mắc về trình tự, thủ tục xóa án tích, quý khách hàng có thể liên hệ đến chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn trực tiếp bởi Luật sư tư vấn Hình sự giàu kinh nghiệm của công ty. Trân trọng! Liên hệ qua Hotline 094 221 7878 – Ls Trần Trọng Hiếu Trưởng CN là người trực tiếp tư vấn; 096 267 4244 – Ls Trần Trọng Hiếu Trưởng CN là người trực tiếp tư vấn. Liên hệ trực tiếp tại địa chỉ – Số 15 đường 21, phường Bình An, Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh; – Số 60A đường 22, phường Phước Long B, Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh. Liên hệ qua Zalo – Facebook Zalo 094 221 7878 – Facebook Saigon Law Office Liên hệ qua Email Saigonlaw68 Luatsutronghieu Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý Khách Hàng! >> Danh sách văn phòng luật sư của chúng tôi - Văn phòng luật sư Dĩ An Bình Dương - Văn phòng luật sư Long An - Văn phòng luật sư Long Thành Đồng Nai
- Xóa án tích là một chế định quan trọng, cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người. Với chế định này, Nhà nước ta đã ghi nhận sự nỗ lực cải tạo của người phạm tội nhằm xóa bỏ đi quá khứ đã từng bị kết án của họ, từ đó giúp xóa bỏ thành kiến của xã hội đối với người phạm tội, giúp họ sớm hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Kế thừa và hoàn thiện Bộ luật Hình sự BLHS năm1999, BLHS năm 2015 tiếp tục sửa đổi, bổ sung chế định về án tích và đương nhiên xóa án tích cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định về đương nhiên xóa án tích theo BLHS 2015, chúng tôi thấy có một số vướng mắc, nhiều nội dung của quy định đương nhiên xóa án tích còn có những nhận thức khác nhau gây khó khăn cho việc áp dụng. quy định đương nhiên xóa án tích Điều 70 về Đương nhiên được xóa án tích có quy định “1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. Người bị kết án đương nhiên được xóaán tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây a 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; b 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm,tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. Người bị kết án đương nhiên được xóaán tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này.” Theo quy định tại Điều 70 nêu trên hiện đang có hai quan điểm về thời hạn để tính đương nhiên xóa án tích. Quan điểm thứ nhất cho rằng Thời hạn để được coi là đương nhiên xóa án tích được tính từ khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách của án treo như quy định tại khoản 1 của Điều 70, còn việc họ chấp hành hình phạt bổ sung hoặc các quyết định khác của bản án không ảnh hưởng đến thời hạn để họ được đương nhiên xóa án tích. Quan điểm thứ hai cho rằng Dù chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời gian thử thách của án treo thì người phạm tội vẫn phải chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian quy định. Thời gian được xóa án tích sẽ bắt đầu được tính từ khi họ chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án, vấn đề có lợi chỉ là thời hạn mà họ không thực hiện hành vi phạm tội mới được rút ngắn hơn. Những người đồng ý với quan điểm thứ nhất cho rằng, quy định tại khoản 1 Điều 70 là bất cứ người bị kết án nào không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn như quy định tại khoản 2 Điều 70 thì được coi là đương nhiên xóa án. Theo tôi, cách hiểu như vậy là không đúng nội hàm của Điều luật. Tại khoản 1 của Điều 70 ngoài việc quy định như trên còn có quy định dẫn chiếu là “…và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”. Còn khoản 2 và 3 có quy định “2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây… Người bị kết án đương nhiên được xóaán tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này”. Do vậy, theo tôi cách tính thời hạn để được coi là đương nhiên xóa án tích phải áp dụng như quan điểm thứ hai mới phù hợp và đúng quy định của pháp luật, tức là chỉ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính và chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án thì mới được áp dụng thời hạn theo quy định để tính đương nhiên xóa án tích. Còn việc hình phạt chính đã tuyên chỉ là căn cứ áp dụng thời hạn để xóa án tích chứ không phải là tính thời hạn để đương nhiên xóa án tích là từ khi chấp hành xong hình phạt chính đã tuyên Ví dụ Nếu hình phạt chính đã tuyên là ba năm thì thời hạn áp dụng để đương nhiên xóa án tích là 02 năm. Do vậy, không thể áp dụng theo quan điểm thứ nhất được. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chúng tôi thấy, quy định về cách tính thời hạn đương nhiên xóa án tích như quy định tại Điều 64 BLHS 1999 và Điều 70 BLHS 2015 cũng chưa thỏa đáng, chưa thực sự bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nên chúng ta phải hướng tới những quy định nhân đạo hơn với người phạm tội. Thực tế, có những người đến khi chết vẫn chưa được xóa án tích bởi quy định người được xóa án tích phải chấp hành xong tất cả các quyết định của bản án, kể cả hình phạt bổ sung, cũng như bồi thường thiệt hại. Về vấn đề bồi thường thiệt hại, có những trường hợp phải bồi thường rất lớn, bản thân họ có đi tù về cũng chưa chắc đã làm đủ ăn thì sao có thể bồi thường được và như vậy không biết bao giờ họ mới được tính thời hạn để xóa án tích. Tương tự như vậy, những trường hợp phải cấp dưỡng nuôi con hoặc bố, mẹ già của người bị hại, nếu không thỏa thuận được thì phải cấp dưỡng theo hàng tháng, như vậy có những trường hợp cấp dưỡng tới 18 năm, có trường hợp cấp dưỡng tới lúc chết thậm chí có trường hợp người phải cấp dưỡng lại chết trước người được cấp dưỡng. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi lại quy định về thời hạn để tính đương nhiên được xóa án tích theo hướng quy định “ Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong các quyết định hình sự của bản án”. Trong các vụ án hình sự, thì các quyết định hình sự của bản án, chính là hình phạt chính bao gồm các hình phạt chính được quy định tại Điều 32 BLHS 2015. Sửa đổi như vậy, sẽ tạo điều kiện để người đã từng bị kết án làm lại lại cuộc đời, tái hòa nhập cộng đồng, có ích cho xã hội… cách tính thời hạn để xóa án tích Qua nghiên cứu những vấn đề liên quan đến xóa án tích theo quy định của BLHS 2015 thì thấy, tại khoản 2 Điều 69 và Điều 107 quy định rõ năm trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích, gồm Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị kết án không kể về tội gì; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý; người dưới 18 tuổi phạm tội bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; người đã thành niên bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng; người được miễn hình phạt. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 73 quy định về cách tính thời hạn để xóa án tích thì chúng tôi lại thấy có nhiều điều chưa hợp lý. Cụ thể Điều 73 quy định “1. Thời hạn để xóa án tích quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên. Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành. Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóaán tích, có tội thuộc trường hợp xóaán tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lạicũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt”. Quy định trên có những vấn đề chưa hợp lý như sau Thứ nhất Theo quy định tại khoản 2 của Điều 73 thì một người nào đó đã bị kết án chưa được xóa án tích và lại thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại, có phải bắt đầu được tính kể từ khi họ chấp hành xong hình phạt chính chứ không cần phải chấp hành xong tất cả các quyết định khác của bản án? Nếu vậy thì có mâu thuẫn với quy định tại Điều 70, 71 không? Khoản 2 Điều 71 còn quy định thêm cụm từ “hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới”. Chúng tôi thấy quy định này không hợp lý bởi lẽ Người bị kết án, chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị đưa ra xét xử, thì lần phạm tội này đối với họ đã bị coi là tái phạm. Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2013, hướng dẫn việc xem xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo có hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 2 là “Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nới cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật…”. Nếu hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 71 thì phải chăng được phép cho hưởng án treo cả trong trường hợp tái phạm? Thứ hai Quy định tại khoản 2 Điều 107 về xóa án tích có sự mâu thuẫn với Điều 70 và gây bất lợi cho người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Tại khoản 2 Điều 107 có quy định “2. Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xoá án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới”. Theo chúng tôi, quy định trên là mâu thuẫn với quy định đương nhiên được xóa án tích tại Điều 70 và gây bất lợi cho người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bởi lẽ Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 quy định về tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thì “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi… nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật quy định” và theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/5/2006 thì “B. Trường hợp người chưa thanh niên phạm tội là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì hình phạt áp dụng đối với họ là ¾ mức hình phạt áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội.” Ví dụ Một người 17 tuổi phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” bị xét xử theo khoản 2 Điều 134 thuộc trường hợp rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ năm đến mười hai năm. Nếu người bị kết án là người thành niên thì bị xử 06 năm tù, nhưng người bị kết án mới 17 tuổi nên mức hình phạt của họ bằng ba phần tư là bốn năm sáu tháng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích của họ sẽ là 2 năm, nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 107 thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích của họ lại là ba năm. Đây chính là sự mâu thuẫn giữa quy định tại khoản 2 Điều 107 với khoản 1 Điều 70 của BLHS 2015 và gây bất lợi cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi trong trường hợp tính thời hạn để được đương nhiên xóa án tính. Trên đây là một số ý kiến về quy định đương nhiên được xóa án tích trong BLHS 2015, rất mong TANDTC có hướng dẫn kịp thời để việc áp dụng được thống nhất, đồng thời, cũng có ý kiến với Quốc hội để sửa đổi kịp thời những quy định còn mâu thuẫn trong BLHS 2015.
xóa án tích theo bộ luật hình sự